Avatar's Krad

Ghi chép của Krad

Tuyển tập những bài thơ tình của Trung Hoa (10)

Tiết Phụ Ngâm

Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu;
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích minh quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phu thê nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Dịch Nghĩa:

Bài Ca Người Tiết Phụ

Anh biết em đã có chồng,
Tặng em đôi hạt châu sáng.
Cảm động trước tình đeo đẳng của anh,
Em buộc vào áo lót mình bằng lụa hồng.
Nhà em có lầu cao kề bên vườn hoa,
Chồng em cầm kích túc trực trong điện Minh Quang. (1)
Vẫn biết lòng anh trong sáng như mặt trời, mặt trăng,
(Nhưng) em đã thề cùng sống chết với chồng.
Trả lại anh đôi hạt châu sáng, hai hàng nước mắt nhỏ sa,
Ân hận không gặp nhau lúc chưa lấy chồng.

Dịch Thơ:

Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những cảm mối tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương quyết chẳng phụ chàng thề xưa.
Trả chàng ngọc, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Bản dịch của Ngô Tất Tố

Chú thích:

(1) Minh Quang: Tên một điện trong hoàng cung triều Hán.


Nguyên tác: Trương Tịch


Trúc chi từ

Dương liễu thanh thanh giang thủy bình,
Văn lang giang thượng xướng ca thanh.
Đông biên nhật xuất tây biên vũ,
Đạo thị vô tình hoàn hữu tình.

Dịch Nghĩa:

Trúc Chi Từ (1)

Dương liễu xanh xanh, nước sông phẳng lặng,
Nghe tiếng ca của chàng trên sông.
Bên đông mặt trời mọc, bên tây mưa
Nói là vô "tình" mà lại có "tình" (tạnh) (2)

Dịch Thơ:

Dòng sông phẳng lặng, liễu xanh xanh,
Trên sông nghe vẳng tiếng ca anh.
Bên tây mưa xuống, bên đông nắng,
Tuy nói vô tình lại có tình.


Chú thích:

Bài "Trúc chi từ" này mô phỏng làn điệu dân ca "Trúc chi" vùng Hồ, Tương, khác với "Trúc chi từ" vùng Quỳ châu.

Câu này có sự chơi chữ "hài thanh song quan" hai chữ "tình" câu cuối có nghĩa là "trời tạnh", ứng với 3 câu "đông nắng tây mưa" nhưng ngầm biểu đạt chữ "tình" là tình yêu.


Nguyên tác: Lưu Vũ Tích


Trúc chi từ II

Sơn đào hồng hoa mãn thượng đầu,
Thục giang xuân thủy phách sơn lưu.
Hoa hồng dị suy tự lang ý,
Thủy lưu vô hạn tự nùng (2) sầu.

Dịch Nghĩa:

Trúc Chi Từ (1)

Hoa đào đỏ rực khắp trên đầu núi,
Mùa xuân, nước sông Thục giang vỗ vào vách núi trôi đi.
Màu hồng của hoa dễ tàn phai như ý chàng.
Nước chảy vô hạn như nỗi buồn của thiếp.

Dịch Thơ:

Hoa đào đỏ rực trên đầu núi,
Dòng sông vỗ sóng nước mênh mang.
Nước trôi vô hạn như tình thiếp,
Hoa dễ tàn phai tựa ý chàng.


Chú thích:

1. Bài "Trúc chi từ" này là bài thứ 2 trong "Trúc chi từ cửu thủ" (9 bài Trúc chi từ), tác giả viết theo làn điệu dân ca "Trúc chi từ" vùng Quỳ Châu. Thời gian này (821-824) Lưu Vũ Tích đang làm Quỳ Châu Thứ Sử (ông là một nhà thơ yêu thích dân ca, đến địa phương nào cũng học tập dân ca vùng ấy).

2. Nùng: (thiếp). Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Phụ nữ miền Nam Trung Quốc tự xưng là "nùng".


Nguyên tác: Lưu Vũ Tích


Trúc chi từ VII

Cù Đường tào tào thập nhị than,
Nhân ngôn đạo lộ cổ lai nan.
Trường hận nhân tâm bất như thủy,
Đẳng nhàn bình địa khởi ba lan.

Dịch Nghĩa:

Trúc Chi Từ VII

Cù Đường hiểm trở mười hai ngọn thác,
Người ta bảo đường này xưa nay thật khó đi.
Đáng giận lòng người chẳng như nước,
Khi không đất bằng nổi sóng dữ.

Dịch Thơ:

Cù Đường hiểm trở mười hai thác,
Xưa nay đường ấy thật gian nan.
Đáng giận lòng người chẳng như nước,
Khi không dậy sóng giữa đất bằng.


Chú thích:

1) Đây là bài "Trúc chi từ" thứ 7, trong "Trúc chi từ cửu thủ", mô phỏng dân ca Quỳ Châu.


Nguyên tác: Lưu Vũ Tích
5000 ngày trước · Bình luận · Loan tin ·  
được loan tin bởi Baby_90
Website liên kết